Trí tuệ của ông Lê Đức Thọ trong cuộc đấu trí tại Paris với Kissinger

Trí tuệ của ông Lê Đức Thọ trong cuộc đấu trí tại Paris với Kissinger

Trong khoảng thời gian từ năm 1970 đến 1972, hai nhân vật lịch sử quan trọng, ông Lê Đức Thọ và Henry Kissinger, đã trải qua hàng loạt cuộc đàm phán căng thẳng tại Paris với mục tiêu chấm dứt chiến tranh và thiết lập hòa bình ổn định tại Việt Nam.

Cuộc đàm phán bốn bên tại Paris bắt đầu từ năm 1969, nhưng gặp khó khăn với các phiên công khai. Để vượt qua tình thế khó khăn này, Mỹ và Hà Nội đã thiết lập một kênh đàm phán bí mật, trong đó hai nhân vật chính là ông Lê Đức Thọ và Kissinger.

Ông Lê Đức Thọ, xuất thân từ Nam Định, là một người tham gia hoạt động cách mạng từ khi còn nhỏ, trải qua nhiều giai đoạn giam giữ từ Hỏa Lò đến Sơn La, Côn Đảo. Vào Tết Mậu Thân năm 1968, ông tham gia cơ đồ cường bộ cho Trung ương Cục miền Nam. Đặc biệt, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã bổ nhiệm ông làm cố vấn đặc biệt cho Trưởng đoàn ngoại giao Xuân Thủy tại cuộc đàm phán tại Paris. Khi đó, ông đã 57 tuổi và là Ủy viên Bộ Chính trị.

Trong hồi ký của mình, Kissinger mô tả ông Lê Đức Thọ với mái tóc hoa râm, vóc dáng đường bệ, thường mặc bộ đại cán xám hoặc marông, đôi mắt to và sáng. Ông Thọ thường thể hiện sự bình tĩnh, với thái độ “không có gì để chê trách, trừ vài lần hiếm hoi”.

Henry Kissinger, với vai trò là Cố vấn đặc biệt về an ninh quốc gia cho Nhà Trắng và kinh nghiệm giảng dạy tại Đại học Harvard, đã chứng minh mình là một nhà ngoại giao tài năng, có hiểu biết sâu sắc về tình hình ở Việt Nam.

Cuộc gặp đầu tiên

Ngày 21/2/1970, hai nhân vật quan trọng là ông Lê Đức Thọ và Henry Kissinger có cuộc gặp đầu tiên tại ngôi nhà số 11 phố Darthé, Choisy-le-roi, Paris. Kissinger đến, và ông Xuân Thủy, đại diện Việt Nam, đưa anh ta vào phòng khách nhỏ. Nhà ngoại giao Lưu Văn Lợi, thư ký của ông Lê Đức Thọ, đã ghi lại: “Đây là một khoảnh khắc lịch sử, hai cá nhân hoàn toàn khác biệt về nguồn gốc xã hội, bản chất và lý tưởng chính trị, gặp nhau để bàn cãi quyết liệt trong ba năm để tìm giải pháp cho vấn đề Việt Nam.”

Sau khi xin lỗi vì đến muộn và yêu cầu giữ bí mật cuộc gặp, Kissinger khẳng định ý định thiện chí và nghiêm túc của Mỹ trong đàm phán. Tuy nhiên, ông chú ý đến việc tình hình nước Mỹ có lợi hơn cho Nixon và khó khăn hơn cho Hà Nội tại miền Nam. Ông cũng nhấn mạnh rằng Hà Nội không còn nhận được sự ủng hộ rộng rãi từ nhiều quốc gia như trước đây. Mỹ mong muốn chấm dứt chiến tranh thực tế, không chỉ trên lý thuyết.

Kissinger nhấn mạnh rằng tiến triển trong đàm phán phụ thuộc vào việc không gia tăng bạo lực ở miền Nam. Sau khi chiến tranh kết thúc, Mỹ cam kết hỗ trợ Việt Nam trong quá trình phục hồi và xây dựng quốc gia, đồng thời hứa rằng “sẽ không bao giờ làm đe dọa cho độc lập của Việt Nam”. Trước khi kết thúc cuộc gặp, Kissinger xin lỗi vì đã nói quá dài, nhưng ông không quên thêm: “giáo sư Đại học Harvard luôn nói trong 55 phút.”

Cố vấn Lê Đức Thọ đàm phán với tiến sỹ Henry Kissinger, cố vấn Hoa Kỳ tại Pháp ngày 13/1/1973. Ảnh: TTXVN
Cố vấn Lê Đức Thọ (giữa) tại cuộc đàm phán với Henry Kissinger, ngày 13/1/1973. Ảnh: TTXVN

Trong buổi chiều cùng ngày, ông Lê Đức Thọ phản đối ý kiến của Kissinger, cho rằng anh ta đánh giá không chính xác tình hình chiến trường. “Đó là quyền của ông. Trong 15 năm qua, khi đánh giá tương quan lực lượng, họ đã rất sai lầm về chúng tôi”, ông Lê Đức Thọ nói và không quên nhấn mạnh rằng Việt Nam hóa chiến tranh đã dần thất bại.

Đọc thêm  Baby Monster tiết lộ màn trình diễn trực tiếp đầu tiên của 'BATTER UP'

Cố vấn của đoàn Hà Nội khẳng định rằng dù Mỹ tiếp tục như thế nào, điều đó không thay đổi được hướng của cuộc chiến. “Dân tộc tôi đã bị lừa dối nhiều lần, nếu muốn giải quyết vấn đề, chúng ta cần phải trung thực”, ông Thọ nói. Trước khi kết thúc bài phát biểu, ông nhấn mạnh: “Trong hai con đường hòa bình và chiến tranh, các ông nên chọn một. Nếu các ông chọn con đường hòa bình, chúng ta có thể giải quyết vấn đề một cách hòa bình.”

Đàm phán bế tắc

Vào đầu tháng 10/1972, sau khi Hà Nội đề xuất bản bản dự thảo Hiệp định Paris, ông Lê Đức Thọ và Henry Kissinger chủ yếu đồng thuận với nhiều điều khoản và đặt ra kế hoạch cho thời gian ký kết. Kissinger tuyên bố sẽ đến Hà Nội để ký kết, trong khi ông Thọ, một cách hài hước, nói “có lẽ sẽ cần nhảy dù,” vì lúc đó phải qua sông Hồng bằng cầu phao. Tuy nhiên, sau đó, Mỹ lại trì hoãn quá trình thực hiện và Kissinger không thực hiện chuyến đi Hà Nội như đã dự kiến.

Trong cuộc họp vào tháng 11, Kissinger cố gắng làm dịu không khí bằng cách mời ông Lê Đức Thọ giảng giải tại Đại học Harvard. Trong khi đó, ông Thọ đã chuẩn bị một bài diễn thuyết dài 5 trang, tuyên bố thiện chí của Hà Nội và chỉ trích sự lật lọng của Mỹ. “Chúng tôi đã bị lừa dối bởi người Nhật, người Pháp, người Mỹ, nhưng chưa bao giờ là một cách trắng trợn như lần này”, ông Thọ phê phán mạnh mẽ và hỏi Kissinger: “Ông đã từng nói rằng việc hiểu biết và tin cậy lẫn nhau là quan trọng, vậy mà sau đó ông lật ngược. Ông nghĩ chúng tôi sẽ nghĩ gì về ông?”

Tiến sỹ Henry Kissinger, cố vấn An ninh quốc gia Nhà Trắng, đàm phán với cố vấn Lê Đức Thọ tại Pháp ngày 13/1/1973. Ảnh: TTXVN
Henry Kissinger, Cố vấn An ninh quốc gia Nhà Trắng (giữa), đàm phán với cố vấn Lê Đức Thọ tại Pháp ngày 13/1/1973. Ảnh: TTXVN

Henry Kissinger giải thích rằng cuộc chiến kéo dài đã làm cho những vấn đề phức tạp hơn khi họ tiến gần đến giải pháp mới, mà họ chưa kịp nghĩ tới. Mặc dù hứa hẹn có thể hoàn thành phần lớn văn bản trong tuần đó, Kissinger lại yêu cầu sửa lại hầu hết các chương trong hiệp định, đặc biệt là về ngừng bắn, rút quân và chính trị nội bộ ở miền Nam.

Đọc thêm  Thủ môn Filip Nguyen chính thức có quốc tịch Việt Nam

Mỹ đưa ra yêu cầu xóa tên của Chính phủ Cách mạng Lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam khỏi lời mở đầu và các chi tiết khác trong hiệp định; rút tất cả các lực lượng không phải là miền Nam khỏi miền Nam; không công nhận sự hiện diện của hai chính phủ, hai quân đội và hai lãnh thổ ở miền Nam. Kissinger cũng không đề cập đến trách nhiệm hàn gắn vết thương chiến tranh ở Việt Nam.

Lưu Văn Lợi, nhà ngoại giao, tường thuật rằng ông Lê Đức Thọ đã nhắc nhở Nixon về công hàm trước đó từ Hà Nội, khẳng định rằng hiệp định “đã hoàn thành” và chỉ trích những quan điểm của Kissinger.

Ông Thọ nhấn mạnh vai trò quan trọng của Chính phủ Cách mạng Lâm thời ở miền Nam và trong cộng đồng quốc tế. Ông cho biết miền Nam đã được chia thành ba khu vực trong nhiều năm, do chính quyền Sài Gòn, quân giải phóng kiểm soát và khu vực tranh chấp. Yêu cầu của Kissinger về việc loại bỏ các khu vực do Chính phủ Cách mạng lâm thời (quân giải phóng) kiểm soát là không hợp lý và vô lý, vì Mỹ và Sài Gòn chưa từng đạt được điều này trước đó.

Ông Thọ phản đối yêu cầu Mỹ rút quân Bắc Việt Nam khỏi miền Nam, quan điểm mà ông cho rằng là không chấp nhận được. Ông nhấn mạnh quyền của nhân dân Việt Nam chống lại xâm lược và không thể coi việc rút quân Bắc ngang hàng với việc rút quân Mỹ. “Đưa ra vấn đề như vậy không công bằng, không đạo đức, không chính trị, không pháp lý,” ông Thọ phản biện những đề xuất của Kissinger.

Mặc dù Kissinger đồng ý với một số đề xuất của ông Lê Đức Thọ, hai bên vẫn còn nhiều tranh cãi. Ông Thọ một lần hỏi thẳng: “Các ông có muốn tiếp tục đàm phán không? Nếu ông cố vấn không muốn, chúng tôi cũng sẽ dừng lại. Nhưng nếu muốn tiếp tục, chúng tôi sẽ tiếp tục, nhưng cần phải có sự đi và lại.”

Hiệp đấu cuối cùng

Vào ngày 18/12/1972, khi ông Lê Đức Thọ vừa trở về nhà từ sân bay Gia Lâm, máy bay B-52 của Mỹ bắt đầu thả bom xuống Hà Nội, Hải Phòng và nhiều thành phố khác. Tuy nhiên, kế hoạch dùng bom để thay đổi tình thế, theo đuổi bởi chính tổng thống Nixon, đã thất bại. Cuộc gặp giữa ông Lê Đức Thọ và Kissinger được tái khởi động đầu năm 1973, đánh dấu làn sóng đàm phán cuối cùng giữa họ để đạt đến ký hiệp định.

“Cố vấn Lê Đức Thọ tới Paris trong hào quang trận Điện Biên phủ trên không”, ông Lưu Văn Lợi miêu tả.

Khác với thường lệ, đoàn Việt Nam không ra đón Kissinger ngoài cổng. Hà Nội biểu thị sự lạnh nhạt với người Mỹ, sau 12 ngày đêm khói lửa trên bầu trời Hà Nội. “Các ông lấy cớ đàm phán gián đoạn để ném bom miền Bắc Việt Nam lúc tôi vừa về đến nhà. Hành động của các ông trắng trợn và thô bạo. Các ông tưởng làm như vậy có thể khuất phục được chúng tôi, nhưng các ông nhầm. Chính các ông làm cho đàm phán khó khăn, danh dự nước Mỹ hoen ố”, ông Lê Đức Thọ phê phán Mỹ.

Đọc thêm  Khai trừ ra khỏi Đảng ông Lưu Bình Nhưỡng

Ông Kissinger thanh minh, cách đàm phán của Hà Nội cuối năm 1972 khiến Washington cho rằng muốn kéo dài, không giải quyết vấn đề. Khi Kissinger đề nghị không chỉ trích nữa, ông Thọ đáp: “Tôi kiềm chế lắm rồi, chứ dư luận thế giới, nhà báo và các nhân vật ở Mỹ còn dùng câu chữ dữ dội hơn nhiều”.

Cố vấn Lê Đức Thọ và tiến sỹ Henry Kissinger chúc mừng nhau sau lễ ký tắt Hiệp định Paris, ngày 23/1/1973. Ảnh: TTXVN
Cố vấn Lê Đức Thọ và tiến sĩ Henry Kissinger chúc mừng nhau sau lễ ký tắt hiệp định Paris, ngày 23/1/1973. Ảnh: TTXVN

Cách ký hiệp định là vấn đề kỹ thuật, nhưng được bốn bên tham gia đàm phán quan tâm. Ông Lê Đức Thọ đòi hai bên ký và bốn bên ký. Kissinger không đồng ý, đề ra ba phương án nhưng đều không có tên Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam.

Sau đó, Kissinger đề nghị hai bên ký, bốn bên ký nhưng trong bản bốn bên thì mỗi bên ký một tờ riêng biệt và cả bốn tờ gộp chung vào hiệp định; người ký đều ghi chức vụ. Hai bên thỏa thuận như vậy.

Ông Lê Đức Thọ đề nghị thêm Nghị định thư về bồi thường. Kissinger nói Mỹ sẽ đóng góp vào hàn gắn vết thương chiến tranh, nhưng không nên có Nghị định thư khi tù binh Mỹ chưa được thả và số tiền cần Quốc hội thông qua. Vì vậy, hai bên sẽ trao công hàm và bàn sau. Ông Thọ đồng ý.

Ngày họp cuối hôm 13/1/1973, Kissinger đề nghị lễ ký không đọc diễn văn và chỉ chúc từng người bên ngoài. Đó là ngày trang trọng ở Mỹ, ở Việt Nam càng trang trọng hơn. “Vì vậy, chúng ta nên khởi đầu với thái độ hòa giải, quảng đại, nồng nhiệt với nhau”, Kissinger nói và ông Thọ đồng ý.

Kết thúc ngày họp cuối, hai đoàn ăn cơm chung. Ông Lê Đức Thọ nâng cốc với Kissinger, nói “đây là kết quả bước đầu nhưng rất quan trọng và cơ bản để lập lại hòa bình ở Việt Nam”. Kissinger đáp “đến lúc này hòa bình sẽ trở lại Đông Dương, với hai dân tộc chúng ta vào ngày ký hiệp định”.

Ngày 23/1/1973, sau khi ký tắt hiệp định Paris, Kissinger trao bút cho ông Lê Đức Thọ và nói “tôi tặng ông cây bút này để nhớ mãi ngày lịch sử”. Ông Lê Đức Thọ tặng lại Kissinger bút của mình, dặn “ông ký rồi phải giữ lời nhé”.

Sau khi hiệp định Paris về chấm dứt chiến tranh, lập lại hòa bình ở Việt Nam được ký ngày 27/1/1973, hai ông Lê Đức Thọ và Kissinger được trao giải Nobel Hòa bình. Tuy nhiên, ông Thọ từ chối nhận với lý do Mỹ là gây chiến tranh xâm lược ở Việt Nam. Một bên đi xâm lược, một bên chống lại quân xâm lược để giải phóng dân tộc mình không thể cùng chia nhau giải Nobel hòa bình. Hơn nữa, hòa bình chưa thực sự hiện diện ở Việt Nam, đất nước vẫn còn chia cắt.

Thể loại

Bình luận