Thẻ Căn Cước: Lưu Trữ Mống Mắt – Bước Tiến An Ninh và Xác Thực Công Dân
Luật Căn cước vừa được Quốc hội thông qua đã điều chỉnh và bổ sung một số quy định liên quan đến thu thập thông tin cá nhân, nhằm tối ưu hóa cơ sở đối soát và xác thực thông tin. Quy định mới này được đưa ra để hỗ trợ trong những trường hợp khó khăn khi không thể thu nhận vân tay của một người.
Quốc hội đã chấp thuận Luật Căn cước với sự đồng thuận của 431 đại biểu, có 21 người không tán thành và 16 người không biểu quyết. Được thiết lập với 6 chương và 46 điều, luật sẽ có hiệu lực thi hành từ ngày 1/7/2024.
Trong quá trình giải trình và chỉnh lý dự thảo, Chủ nhiệm Ủy ban Quốc phòng, An ninh Lê Tấn Tới đã đề cập đến việc sử dụng tên gọi “Luật Căn cước” và “thẻ căn cước”, cho rằng nó phản ánh đầy đủ mục đích quản lý và phục vụ Nhân dân. Do đó, Ủy ban Thường vụ Quốc hội đề xuất giữ nguyên tên gọi này.
Với việc thúc đẩy tính hợp lý và hiệu quả trong việc quản lý thông tin, ông Tới đã báo cáo rằng việc thu thập mống mắt cùng với vân tay là một biện pháp hiện đại và chứng minh khoa học. Mống mắt, với cấu trúc đường vân phức tạp và duy nhất đối với mỗi người, ít biến đổi theo thời gian. Do đó, việc này sẽ đóng vai trò quan trọng trong việc đối soát và xác thực thông tin cá nhân, đặc biệt là khi không thể thu được vân tay từ một số trường hợp.
Ủy ban Thường vụ Quốc hội (UBTVQH) đã phản hồi về ý kiến đề nghị bổ sung thông tin “dân tộc” trên thẻ căn cước trong dự thảo Luật Căn cước. UBTVQH cho rằng, việc thêm thông tin “dân tộc” có thể tạo thuận lợi cho người dân thực hiện các quyền và lợi ích liên quan, đặc biệt là ưu tiên đối với đồng bào dân tộc. Tuy nhiên, UBTVQH cũng nhấn mạnh rằng thông tin này trong một số trường hợp có thể mang tính nhạy cảm và dẫn đến sự phân biệt đối xử.
Theo quy định trong dự thảo, thông tin “dân tộc” và thông tin về chứng minh nhân dân đã được ghi nhận trong bộ phận lưu trữ thông tin được mã hóa của thẻ căn cước. Điều này giúp đảm bảo tính an toàn và bảo mật thông tin cá nhân. Các thông tin này có thể được tiếp cận một cách thuận tiện hoặc khai thác thông qua Cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cư.
Gần đây, Chính phủ đã đưa ra các chỉ đạo quyết liệt và hiệu quả, loại bỏ yêu cầu của người dân phải mang theo giấy xác nhận thông tin chứng minh nhân dân khi thực hiện các giao dịch. Điều này giúp giảm bớt phiền toái cho người dân trong quá trình thực hiện các thủ tục hành chính.
Tính đến hiện tại, còn một ý kiến đề nghị là bỏ trường thông tin “Nơi đăng ký khai sinh” trên thẻ căn cước vì thông tin này có thể thay đổi theo thời gian. Các ý kiến này đang được cân nhắc và thảo luận một cách kỹ lưỡng để đảm bảo tính linh hoạt và thuận tiện cho người dân.
UBTVQH đã giải thích rằng quy định về việc in thông tin “Nơi đăng ký khai sinh” trên thẻ căn cước sẽ mang lại thuận lợi cho công dân trong các thủ tục hành chính hoặc giao dịch yêu cầu xác minh nơi đăng ký khai sinh. Thông tin này được xem là ổn định và ít thay đổi trong suốt cuộc đời của công dân, trừ khi công dân đăng ký khai sinh lại ở một địa phương khác. Trong trường hợp này, công dân có thể yêu cầu cấp đổi thẻ căn cước để cập nhật thông tin.
Về ý kiến đề nghị nghiên cứu việc cấp giấy chứng nhận căn cước cho những người không quốc tịch đang cư trú trên lãnh thổ Việt Nam, UBTVQH đã giải thích rằng thực tế cho thấy có nhiều người có quốc tịch nước ngoài nhưng cố ý giấu hoặc vứt bỏ giấy tờ chứng minh quốc tịch để ở lại Việt Nam bất hợp pháp. Mở rộng đối tượng được cấp giấy chứng nhận căn cước có thể tạo ra nhiều vấn đề, đặc biệt là liên quan đến an ninh và trật tự ở Việt Nam.
Điều 22 của dự thảo Luật quy định các thông tin được tích hợp vào thẻ căn cước, bao gồm thông tin thẻ bảo hiểm y tế, sổ bảo hiểm xã hội, giấy phép lái xe, giấy khai sinh, giấy chứng nhận kết hôn, hoặc các giấy tờ khác do Thủ tướng quyết định, trừ thông tin trên giấy tờ do Bộ Quốc phòng cấp.
Ủy ban Thường vụ Quốc hội thông tin rằng Bộ Công an đã phát hành hơn 83 triệu thẻ căn cước cho những công dân đủ điều kiện. Hiện chỉ còn một số ít công dân tiếp tục sử dụng chứng minh nhân dân, và họ sẽ không thể được cấp thẻ căn cước điện tử. Sự chuyển đổi này đồng nghĩa với việc họ sẽ không thể tận dụng các tiện ích của thẻ căn cước gắn chip và căn cước điện tử trong các giao dịch trực tuyến, cũng như không sử dụng thông tin từ cơ sở dữ liệu.
Do đó, việc tiếp tục sử dụng chứng minh nhân dân không còn phù hợp trong giai đoạn hiện nay. Tuy nhiên, để tạo điều kiện thuận lợi cho người dân thực hiện các giao dịch liên quan đến chứng minh nhân dân trong giai đoạn chuyển đổi, dự thảo Luật đã quy định rằng Chứng minh nhân dân có thời hạn sử dụng được cấp trước ngày Luật có hiệu lực, sẽ có giá trị đến hết ngày 31/12/2024.
Quy định này cũng là cơ sở pháp lý để đảm bảo người dân chuyển đổi sang sử dụng thẻ căn cước, từ đó chuyển đến việc sử dụng căn cước điện tử, phục vụ quá trình chuyển đổi số quốc gia. Dự thảo Luật cũng chỉ định rằng “Thẻ căn cước công dân, chứng minh nhân dân hết hạn sử dụng từ ngày 15/1/2024 đến trước ngày 30/6/2024 sẽ tiếp tục có giá trị sử dụng đến hết ngày 30/6/2024.”
Thông tin được in trên thẻ căn cước bao gồm:
a) Hình Quốc huy nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam;
b) Dòng chữ “CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM, Độc lập – Tự do – Hạnh phúc”;
c) Dòng chữ “CĂN CƯỚC”;
d) Ảnh khuôn mặt;
đ) Số định danh cá nhân;
e) Họ, chữ đệm và tên khai sinh;
g) Ngày, tháng, năm sinh;
h) Giới tính;
i) Nơi đăng ký khai sinh;
k) Quốc tịch;
l) Nơi cư trú;
m) Ngày, tháng, năm cấp thẻ; ngày, tháng, năm hết hạn sử dụng;
n) Nơi cấp: Bộ Công an.
(Điều 18 Luật Căn cước).